Về sinh lý bệnh học của u sọ hầu thì các tác giả cho rằng u có nguồn gốc phát triển từ các biểu mô còn sót lại của khe Rathke dọc theo vùng hầu họng đến vùng yên bướm, não thất ba. U sọ hầu được chia làm 2 loại:
+ U men răng: thường có biểu hiện dạng nang, kèm theo phần đặc trong nang chứa dịch và có nhiều màu sắc khác nhau. Phần đặc gồm những keratin ướt, vôi hóa loạn dưỡng, những bè cơ khối dị bào và những biểu mô trụ hoặc vảy, hiện tượng xơ hóa và viêm rải rác là kết quả của sự bám dính của tổ chức đặc đến những cấu trúc lân cận, loại này thường có vôi hóa và hay gặp ở trẻ em.
+ Loại u nhú: Bao gồm thành phần đặc, hoặc có cả đặc và dịch, thành phần đặc chiếm ưu thế, thường không có vôi hóa, mô học có các tế bào vảy, u hay gặp ở vùng trên yên và ở người lớn
Về lâm sàng: Bệnh nhân thường có đau đầu kèm theo nôn hoặc buồn nôn, giảm thị lực do u chèn dây giao thoa thị giác. Bệnh thường có các biểu hiện của rối loạn bài tiết hormon như phát triển dậy thì muộn, dậy thì sớm, suy các hormon gây đái nhiều... Một số bệnh nhân có các triệu chứng khác như mệt mỏi hay bị nhiễm trùng và khả năng chịu lạnh kém...
Về điều trị: Hiện có nhiều phương pháp điều u sọ hầu như: Điều trị nội khoa; Phẫu thuật mở (PT vi phẫu) cấy hạt phóng xạ Y-90, Xạ trị bằng máy gia tốc từ ngoài, xạ phẫu bằng dao gamma quay...
Xạ phẫu bằng dao gamma (gamma knife) được sử dụng đầu tiên vào năm 1968 bởi giáo sư Lar-Leksell người Thuỷ Điển để điều trị u não, trong đó có u sọ hầu và kết luận phương pháp điều trị này là an toàn, hiệu quả cao. Sau 4 thập kỷ, xạ phẫu bằng dao gamma ngày càng được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới đặc biệt là các nước phát triển. Hệ thống dao gamma ngày càng được cải tiến. Xạ phẫu bằng dao gamma cho u sọ hầu ngày càng được lựa chọn nhiều vì đây là phương pháp đơn giản, ít xâm nhập an toàn cho người bệnh, phương pháp này được xem như là sự lựa chọn cho các trường hợp điều trị bổ trợ cho tổn thương còn sót sau phẫu thuật hay tái phát sau phẫu thuật mở hoặc bệnh nhân không thể phẫu thuật hay bệnh nhân từ chối phẫu thuật mở.
Nguyên lý của xạ phẫu bằng dao gamma là sự hội tụ chính xác của nhiều chùm tia bức xạ vào tổn thương.
Tháng 7 năm 2007 hệ thống xạ phẫu bằng dao gamma quay (rotating gamma knife) do Hoa Kỳ sản xuất lần đầu được ứng dụng tại Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai. Đến nay hệ thống này đã điều trị cho hàng ngàn bệnh nhân có bệnh lý sọ não, trong đó có u sọ hầu. Hệ thống này có ưu điểm hơn dao gamma cổ điển là thay cho mũ cố định nặng nề của dao gamma cổ điển là hệ thống collimator quay đầu bệnh nhân, hệ thống định vị tự động có độ chính xác cao, có kết nối với hệ thống CT, MRI mô phỏng đã giúp cho việc điều trị thuận tiện, chính xác và an toàn.
Trong các yếu tố tiên lương như tuổi, kích thước khối u còn có đặc điểm khi lập kế hoạch điều trị là vị trí nguồn gốc xuất phát của u sọ hầu dọc từ ổ tế bào vảy đến sàn não thất III, việc không lấy bỏ được, hoặc không thể lấy hết tế bào là nguyên nhân chính gây tái phát. Việc phẫu thuật cố lấy bỏ tối đa có thể gây nguy cơ suy thần kinh nội tiết và thị lực, do vậy việc điều trị và vùng xuất phát R của u sọ hầu bằng xạ phẫu dao gamma thay cho phẫu thật mở lấy bỏ khối u và giảm tỉ lệ suy thần kinh nội tiết.
Xạ phẫu bằng dao gamma quay là phương pháp hiệu quả, an toàn cho các trường hợp bệnh nhân sau mổ mở còn sót lại hoặc tái phát cũng như các phương pháp điều trị khác không thực hiện được.

Sau điều trị 12 tháng: Các triệu chứng lâm sàng được cải thiện tốt, hết các biểu hiện suy tuyến yên. Kích thước khối u giảm rất nhiều, còn <1cm


Trước điều trị
Đau đầu, u kt 1,5cm
|
Sau ĐT 18 tháng, Lâm sàng tốt
hết suy yên, u tiêu biến hết
|
PGS.TS Mai Trọng Khoa, Ths Vương Ngọc Dương và CS
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai