Friday, 20 October 2017 02:16

Các chỉ số sinh học của hình ảnh FDG PET/CT trong ung thư vảy vùng đầu cổ

Read 11482 times

Các chỉ số sinh học của hình ảnh FDG PET/CT trong ung thư vảy vùng đầu cổ 

 GS.TS Mai Trọng Khoa, BS Trần Hải Bình, PGS.TS. Trần Đình Hà

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai

 Ung thư vùng đầu cổ là loại ung thư phổ biến, xếp thứ 6 trong các loại ung thư. Ung thư vùng đầu cổ thường gặp là: ung thư vòm, ung thư khoang miệng, ung thư thanh quản, ung thư hạ họng, ung thư các xoang cạnh mũi… Về mô bệnh học thì ung thư biểu mô vảy gặp khoảng 95% các loại ung thư vùng đầu cổ.

 18F-fluoro-2-deoxyglucose (FDG) PET/CT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán giai đoạn ung thư vùng đầu cổ [1]. Các chỉ số sinh học xác định dựa trên hình ảnh FDG PET/CT: giá trị hấp thu chuẩn SUV (standardized uptake value) và các chỉ số thể tích sinh học được nhiều nghiên cứu chứng minh là có giá trị trong đánh giá đáp ứng điều trị và tiên lượng bệnh [2].

 SUV (standardized uptake value)

SUV là giá trị bán định lượng xác định mức độ tập trung FDG trong khối u hoặc tổn thương. Để xác định SUV của khối u, đầu tiên cần vẽ vùng quan tâm trên mặt phẳng 2D (ROI – region of interest) và thể tích quan tâm trong không gian 3D (VOI – volume of interest). SUV là tỉ số mức độ tập trung FDG tại khối u và hoạt độ phóng xạ tiêm vào cơ thể chia cho khối lượng cơ thể. Một số tác giả lại hay sử dụng khối lượng mô không mỡ (lean body weight) hoặc diện tích da (body surface) thay cho khối lượng cơ thể (body weight).

Có hai loại SUV hay sử dụng là SUVmax (maximum SUV) và SUVmean (mean SUV) (hình 1).

SUVmax là giá trị SUV cao nhất trong vùng ROI hoặc VOI, đánh giá mức độ chuyển hoá của khối u, tuy nhiên có hạn chế có thể bị ảnh hưởng bởi nhiễu (noise).

SUVmean là giá trị trung bình của tất cả các pixel trong vùng ROI hoặc các ô thể tích (voxel) trongn vùng VOI, ít bị ảnh hưởng bởi nhiễu hơn. Tuy nhiên SUVmax được sử dụng thường xuyên hơn SUVmean vì ít phụ thuộc vào người đọc kết quả PET/CT (người vẽ ROI hoặc VOI) hơn và dễ được đo lặp lại hơn [3].

3271

 Hình 1. Bệnh nhân Trần Đ. V., nam, 49 tuổi, chẩn đoán: Ung thư hạ họng di căn hạch cổ, giải phẫu bệnh: Ung thư biểu mô vảy. Trên hình ảnh PET/CT cho thấy SUVmax=17,42; SUVmean=10,84; SUVpeak=14,20; MTV(của khối u)=7,46cm3, TLG=80,91 (ảnh chụp tại đơn vị PET/CT, trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai)

Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ hấp thu FDG của khối u có mối tương quan với giai đoạn bệnh. Nghiên cứu của Halfpenny và cộng sự trên 58 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ cho thấy nếu SUVmax của khối u >10 có giá trị tiên tượng bệnh độc lập với giai đoạn khối u cũng như kích thước của khối u [4].

Việc đánh giá đáp ứng điều trị với hình ảnh FDG PET/CT thực hiện dựa trên tiêu chuẩn EORTC (European Organization for Research and Treatment of Cancer): SUVmax sau điều trị giảm 15-25% so với trước điều trị được đánh giá là có đáp ứng điều trị tốt; hoặc tiêu chuẩn PERCIST (PET Response Criteria in Solid Tumors): SUL (SUV hiệu chỉnh với khối lượng mô không mỡ) sau điều trị giảm hơn 30% so với ban đầu được đánh giá là có đáp ứng điều trị. Nghiên cứu của Hentschel và cộng sự trên 37 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ chụp FDG PET/CT trước và sau điều trị cho thấy: nếu SUVmax sau điều trị giảm <50% so với trước điều trị thì tỉ lệ sống chung toàn bộ sau 2 năm là 38%, tỉ lệ tái phát tại chỗ trong 2 năm là 40%; nếu SUVmax giảm > 50% so với trước điều trị thì tỉ lệ sống chung toàn bộ sau 2 năm là 88% và tỉ lệ kiểm soát tại chỗ trong 2 năm là 88% [5]. Một số nghiên cứu cho thấy chụp PET/CT 12 tuần sau điều trị sẽ cho kết quả ít bị dương tính giả hơn nếu chụp PET/CT sớm hơn do tại thời điểm này phản ứng viêm sau xạ trị đã giảm hẳn.

 SUVpeak (peak SUV) là giá trị SUV trung bình trong nhóm các ô thể tích (voxels) xung quanh ô (voxel) có SUV cao nhất. Ý tưởng về SUVpeak nhằm mục đích làm giảm ảnh hưởng của nhiễu và dễ được đo lặp lại hơn (giống SUVmax). Tuy nhiên thực tế chỉ số này ít được sử dụng nghiên cứu.

 MTV (metabolic tumor volume)

MTV (thể tích chuyển hoá của khối u) là thể tích khối u tăng hấp thu FDG. Trong một số nghiên cứu, MTV được chứng minh có giá trị dự đoán tốt hơn SUVmax trong ung thư vùng đầu cổ, ung thư thực quản, ung thư phổi và lymphoma. Tuy nhiên hiện vẫn còn đang tranh luận về phương pháp xác định MTV. Các phương pháp phổ biến hay sử dụng là: dựa trên tỉ lệ % SUVmax cố định (fixed percentage SUVmax) hoặc tỉ lệ % SUVmax tuyệt đối (absolute percentage SUVmax), phương pháp phân chia theo gradien (gradient segmentation method), phương pháp phân chia thích nghi (adaptive segmentation method).

Một nghiên cứu trên 41 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ cho thấy nếu nhóm bệnh nhân có MTV£7,2ml thì tỉ lệ kiểm soát bệnh tại chỗ là 100% so với nhóm có MTV>7,2m (54,2%, p<0,001); và thời gian sống thêm toàn bộ cũng tốt hơn (94% so với 64,2%, p=0,04) [6]. Một nghiên cứu khác của Tang và cộng sự trên 83 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ thì MTV tổng > 17ml làm tăng nguy cơ bệnh tiến triển lên 2,1 lần (p=0,0002) và nguy cơ tử vong 2 lần (p=0,0048) [7].

 TLG (total lesion glycolysis)

TLG = MTV x SUVmean, là chỉ số sinh học đánh giá được khối u cả về mức độ hấp thu FDG và kích thước. Một số nghiên cứu chứng minh được giá trị của dự đoán của TLG trong ung thư đầu cổ, Lymphoma không Hodgkin, ung thư phổi, ung thư vú, ung thư trực tràng… Nghiên cứu của Chang và cộng sự trên 108 bệnh nhân ung thư vòm cho thấy TLG của khối u trước điều trị rất có giá trị tiên lượng thời gian sống chung toàn bộ. Các bệnh nhân có TLG £ 65g có thời gian sống chung toàn bộ (OS) tốt hơn, tỉ lệ sống không tái phát tại chỗ là 88% so với nhóm có TLG >65g (66,2%, p=0,014), tỉ lệ sống không có di căn xa là 72,3% so với 60,5% (p=0,023), tỉ lệ sống không bệnh là 79,9% so với 37,4% (p<0,001) [8].

Tài liệu tham khảo

1. Rodrigues RS, Bozza FA, Christian PE, et al. Comparison of whole-body PET/CT, dedicated high- resolution head and neck PET/CT, and contrast-enhanced CT in preoperative staging of clinically M0 squamous cell carcinoma of the head and neck. J. Nucl. Med. 2009; 50(8):1205–1213

2. Machtay M, Natwa M, Andrel J, et al. Pretreatment FDG-PET standardized uptake value as a prognostic factor for outcome in head and neck cancer. Head Neck. 2009; 31(2):195–201.

3. Paidpally V, Chirindel A, Lam S, et al. FDG-PET/CT imaging biomarkers in head and neck squamous cell carcinoma. Imaging Med. 2012; 4(6):633:647.

4. Halfpenny W, Hain SF, Biassoni L, Maisey MN, Sherman JA, Mcgurk M. FDG-PET. A possible prognostic factor in head and neck cancer. Br. J. Cancer. 2002; 86(4):512–516.

5. Hentschel M, Appold S, Schreiber A, et al. Early FDG PET at 10 or 20 Gy under chemoradiotherapy is prognostic for locoregional control and overall survival in patients with head and neck cancer. Eur. J. Nucl. Med. Mol. Imag. 2011; 38(7):1203–1211.

6. Romesser PB, Qureshi MM, Shah BA, et al. Superior prognostic utility of gross and metabolic tumor volume compared to standardized uptake value using PET/CT in head and neck squamous cell carcinoma patients treated with intensity-modulated radiotherapy. Ann. Nucl. Med. 2012; 26(7):527–534.

7. Tang C, Murphy JD, Khong B, et al. Validation that metabolic tumor volume predicts outcome in head-and-neck cancer. Int. J. Radiat. Oncol. Biol. Phys. 2012; 83(5):1514–1520.

8. Chang KP, Tsang NM, Liao CT, et al. Prognostic significance of 18F-FDG PET parameters and plasma Epstein-Barr virus DNA load in patients with nasopharyngeal carcinoma. J. Nucl. Med. 2012; 53(1):21–28.

Nguồn: Paidpally V, Chirindel A, Lam S, et al. FDG-PET/CT imaging biomarkers in head and neck squamous cell carcinoma. Imaging Med. 2012; 4(6):633:647

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Tem dan Don vi Gen tri lieu 1

logo bach mai 2

Tiêu điểm

Hỗ trợ  

Joomla Templates and Joomla Extensions by ZooTemplate.Com
Hotline: 1900575758 phím 2

Clip

Đối tác chiến lược

chung cư imperia garden

Quảng cáo

Banner

Hình ảnh tiêu biểu

Đối tác chiến lược

chung cư imperia garden

Thống kê

Members : 18707
Content : 1268
Web Links : 3
Content View Hits : 358445